Không gian đĩa 1MB này là cần thiết trên các basic disk vì Windows 2000 cần có không gian trống này khi người can dien tusử dụng cần chuyển một basic disk thành dynamic disk. Mặc dù dữ liệu partition của dynamic disk thường trú trong cơ sở dữ liệu LDM, LDM vẫn cài đặt một bảng partition lọai MS_DOS để thừa kế các tiện ích quản lý đĩa, bao gồm cả các tiện ích chạy dưới Windows 2000 và dưới các hệ điều hành khác trong môi trường boot đôi (dual-boot). Vì các partition LDM không được mô tả trong bảng partition loại MS_DOS nên nó được gọi là các soft partition, các partition loại MS_DOS va mang trinh, do choi tinh duc, am dao gia, phau thuat tham my được gọi là các hard partition.
Một nguyên nhân khác mà LDM phải tạo các bảng partition loại MS_DOS đó là đoạn mã boot của Windows 2000 có thể tìm trong các system volume hoặc boot volume, ngay cả khi các volume nằm trên các dynamic disk. Nếu một đĩa chứa các volume system hoặc boot, hard partition trong bảng partition MS_DOS mô tả vị trí của các partition này. Mặt khác, một hard partition bắt đầu tại cylinder đầu tiên của đĩa và mở rộng đến nơi bắt đầu của cơ sở dữ liệu LDM. LDM đánh dấu partition này như là “LDM”, một partition loại MS_DOS kiểu mới của Windows 2000. Vùng được bao quanh bởi place-holding này của các partition loại MS_DOS là nơi LDM tạo các soft partition mà ở đó cở sở dữ liệu LDM được tổ chức.
Hình 4.17.b sau đây cho thấy các vùng của một dynamic disk. Cơ sở dữ liệu LDM gồm có 4 vùng: Một sector header mà LDM gọi là Private Header. Một bảng nội dung của vùng (Table of Contens). Một cơ sở dữ liệu các bản ghi của vùng. Và một vùng Tramsectional log.

· Private Header sector và Private Header mirror: Các thành phần khác nhau trong Windows 2000 sử dụng một giá trị 128 bít được gọi là GUID: globally unique identifier, để định danh duy nhất các đối tượng. LDM gán cho mỗi dynamic disk một GUID, và Private Header sector ghi GUID của dynamic disk lên vùng thường trú của nó, do đó Private Header được thiết kế như là thông tin riêng của từng đĩa. Private Header cũng lưu trữ tên của nhóm đĩa, đó là tên của máy tính cộng thêm Dg0, và điểm bắt đầu của bản cơ sở dữ liệu của nội dụng. Để an toàn LDM lưu trữ một bản sao của Private Header ở sector cuối cùng của đĩa đó là Private Header mirror.
· Table of contens chiếm 16 sector và chứa thông tin về layout của cơ sở dữ liệu.
· Database record header lưu trữ thông tin về database record area, bao gồm số các record mà nó chứa, tên và GUID của nhóm đĩa và số thứ tự định danh mà LDM sử dụng cho entry kế tiếp mà nó tạo trong cơ sở dữ liệu.
· Các sector sau database record header chứa các record có kích thước cố định 128 byte mà nó lưu trữ các mục vào (entry) mô tả các volume và các partition của nhóm đĩa.
Một mục vào cơ sở dữ liệu có thể là một trong 4 loại: Partition, Disk, Component và Volume. LDM sử dụng các mục vào cơ sở dữ liệu để định danh 3 cấp mô tả volume. LDM nối các entry với các định danh đối tượng bên trong. Tại cấp thấp nhất, các entry partition mô tả các soft partition, các định danh được lưu trữ trong partition entry liên kết entry đến một mục vào componemt và disk. Một entry disk trình bày một dynamic disk, nó là một phần của nhóm đĩa và bao gồm GUID của đĩa. Một entry componemt như là một kết nối giữa một hoặc nhiều entry partition và entry volume mà mỗi partition kết nối với nó. Một entry volume lưu trữ một GUID của volume, tổng kích thước và trạng thái của volume, và các kí tự đĩa gợi ý. Các entry ..can dien tu.
Entry partition mô tả một vùng trên đĩa mà được hệ thống gán thành một volume, entry component nối entry partition với entry volume, và entry volume chứa GUID mà Windows 2000 sử dụng để định danh volume. Các volume multipartition yêu cầu nhiều hơn 3 entry. Ví dụ một striped volume bao gồm ít nhất 2 entry partition: 1 entry component và 1 entry volume. Chỉ có một loại volume có nhiều hơn một entry component đó là Mirror, mirror
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét