Theo hình trên thì, windows98 dùng 4 entry liên tiếp nhau, từ thấp đến cao, trong bảng thư mục gốc để lưu trữ tên file và các thông tin liên quan của file “Nguyen Le Tram Uyen Va Tram Thanh”: 1 entry theo kiểu DOS để lưu trữ tên file thu gọn NGUYEN~1, và 3 entry đánh số thứ tự 1, 2, và 67 theo kiểu windows98 để lưu toàn bộ phần tên file dài. va mang trinh, do choi tinh duc, am dao gia, phau thuat tham my
Chú ý: Vì bảng can dien tuAT quá lớn nên windows98 không nạp hết bảng FAT vào bộ nhớ mà chỉ nạp những phần tử cần thiết, các phần tử được sử dụng hiện tại, nhưng các phần tử này luôn thay đổi, do đó Windows 98 sử dụng một “cửa sổ” trên bảng FAT để phục vụ cho mục đích này, theo đó chỉ các phần tử nằm trong “cửa sổ” mới được nạp vào bộ nhớ để sử dụng tại thời điểm hiện tại.
Tổ chức đĩa của Windows 2000
Các loại Partition
Windows 2000 giới thiệu hai khái niệm: Basic Disk và Dynamic Disk. Windows 2000 gọi các đĩa được phân khu dựa vào sơ đồ phân khu của MS_DOS là các basic disk. Basic là khái niệm mà windows 2000 kế thừa từ MS_DOS, dynamic disk là một khái niệm mới của nó. Windows 2000 đã cài đặt thành công các dynamic disk và nó có nhiều đặc tính nổi trội hơn so với basic disk. Sự khác nhau cơ bản giữa dynamic disk và basic disk đó là dynamic disk hỗ trợ các multipartition volume.
Windows 2000 quản lý tất cả các đĩa như là basic disk trừ khi ta tạo một dynamic disk bằng tay hoặc chuyển một basic disk đang tồn tại thành dynamic disk. Để khuyến kích người quản trị hệ thống sử dụng dynamic disk, Microsoft đưa ra một vài giới hạn sử dụng trên các basic disk, như: chỉ có thể tạo các multipartition volume mới trên các dynamic disk, chỉ có thể chuyển thành dynmic disk trên các volume NTFS. Một bất lợi của dynamic disk là định dạng mà nó sử dụng là độc quyền và không tương thích với các hệ điều hành khác, bao gồm cả các phiên bản khác nhau của Windows. Vì thế ta không thể truy cập dynamic disk trong môi trường đa boot (dual-boot environment).
Ø Basic Partitioning: Khi cài đặt Windows 2000, đầu tiên nó sẽ yêu cầu ta tạo một partition trên ổ đĩa vật lý chính (primary) của hệ thống. Windows 2000 định nghĩa một system volume trên partition này để lưu trữ các file mà nó có thể gọi trong quá trình boot máy. Windows 2000 cũng yêu cầu ta tạo một partition mà nó phục vụ như là một home cho boot volume, đây là nơi mà chương trình setup sẽ cài đặt các file hệ thống của Windows 2000 và tạo ra một thư mục hệ thống \Winnt. System volume và boot volume có thể nằm trên cùng một volume. System volume là nơi Windows 2000 lưu trữ các file boot, bao gồm các file Ntldr và Ntdetect, còn boot volume là nơi Windows 2000 lưu trữ các file chính của hệ điều hành như là Ntoskrnl.exe và các file lõi khác.
Theo chuẩn của BIOS trên các hệ thống x86, tất cả các hệ điều hành đều chọn sector đầu tiên của đĩa primary để chứa master boot record (MBR). Chúng ta đã biết khi một processor được boot thì BIOS của máy tính sẽ đọc MBR và xem xét đoạn mã có khả năng thực hiện của MBR. BIOS sẽ gọi đoạn mã của MBR để khởi tạo tiến trình boot hệ điều hành sau khi đã POST máy tính. Cũng như các hệ điều hành của Microsoft khác, MBR của Windows 2000 cũng chứa một bảng partition. Bảng này cũng có 4 mục vào, nó dùng để cấp phát cho 4 partition chính trên một đĩa. Bảng partition cũng ghi lại loại của partition là FAT32 hay NTFS.

Hình 4.16: các partition trên volume NTFS
Có một loại partition đặc biệt đó là extended partition, nó chứa một MBR khác với một bảng partition riêng của nó. Bằng cách sử dụng extended partition các hệ điều hành của Microsoft đã phá bỏ giới hạn 4 partition trên một đĩa. Tiến trình boot là một thể hiện đầu tiên trong Windows 2000 tạo nên sự khác biệt rõ rệt nhất giữa các partition primary và extended. Hệ thống phải tạo một partition primary trên đĩa primary là active. Trong qúa trình boot đoạn mã của Windows 2000 trong MBR sẽ nạp đoạn mã được lưu trữ tại sector đầu tiên trong partition active (system volume) vào bộ nhớ và trao quyền điều khiển cho đoạn mã này. Windows 2000 chỉ định sector đầu tiên của bất kỳ partition nào đều là boot sector. Như đã biết ở trước, trong Windows 2000 mọi partition được định dạng với một hệ thống file thì nó có một boot sector, là nơi lưu trữ thông tin về cấu trúc của hệ thống file trên partition đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét