Để ghi một file vào thư mục gốc của đĩa (thông tin của file chứa ở một phần tử trong va mang trinh, do choi tinh duc, am dao gia, phau thuat tham my
1. Tìm một phần tử trong bảng thư mục gốc chưa sử dụng, đó là phần tử mà byte đầu tiên của nó chứa gia trị 00. Giả sử tìm được phần tử thứ 105.
2. Ghi tên file, phần mở rộng, thuộc tính của file, ngày giờ tạo file vào các trường tương ứng tại phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
3. Tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 207, điều này có nghĩa cluster 207 trên vùng data còn trống.
4. Ghi số hiệu của entry này, entry 207, vào trường start cluster tại offset 1Ah của phần tử 107 trong bảng thư mục gốc.
5. Ghi block đầu tiên của file vào cluster 107 trên vùng data. Nếu nội dung của tập tin chứa vừa đủ trong 1 cluster, thì DOS sẽ thực hiện bước cuối cùng (bước 9), ngược lại DOS tiếp tục thực hiện bước 6.
6. Tiếp tục tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 215, điều này có nghĩa cluster 215 trên vùng data còn trống.
7. Ghi giá trị 215 vào entry 207 trong bảng FAT và ghi block thứ hai của file vào cluster 215 trên vùng data.
8. Lặp lại các bước 6 và 7 cho đến khi ghi hết các block của file vào các cluster trên vùng data. Giả sử block cuối cùng của file được ghi vào cluster 302 trên vùng data, tức là entry cuối cùng được tìm thấy (chứa giá trị 00h) là entry 302.
9. Bước cuối cùng: ghi giá trị FFFh vào entry 107 hoặc vào entry 302.
10. Tính kích thước của tập tin và ghi vào trường filesize của phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
Ø Thư mục con (subdirectory): Như đã biết, bảng thư mục gốc của DOS định vị tại một vị trí cố định trên đĩa logic, sau 2 bảng FAT, số lượng phần tử trong bảng thư mục gốc là cố định, không thể mở rộng được, và được DOS quy định trong quá trình định dạng đĩa. Đó là những hạn chế về cấu trúc và tổ chức bảng thư mục gốc của DOS. Cụ thể là người sử dụng không thể chứa quá nhiều file, thư mục trên thư mục gốc và bảng thư mục gốc dễ bị virus tấn công. Hệ điều hành DOS đưa ra khái niệm thư mục con để khắc phục một phần những hạn chế trên.
Đối với người sử dụng, thư mục con là những thư mục nằm trên thư mục gốc của đĩa, trên đĩa chỉ có một thư mục gốc nhưng có thể có nhiều thư mục con, trong thư mục con có thể chứa nhiều (không giới hạn) file và thư mục con khác, gắn liền với thư mục con là thư mục cha của nó, thư mục cha có thể là thư mục gốc hoặc một thư mục con khác. Nhưng đối với DOS, thư mục con là một file đặc biệt, file này có thuộc tính thư mục con, byte thuộc tính có giá trị 00010000 (16), và có trường filesize = 0.
Về mặt hệ thống, thư mục con có các điểm khác sau đây so với thư mục gốc:
· Hệ điều hành lưu trữ nó giống như lưu trữ các file khác trên đĩa. Tức là, muốn đọc được thư mục con hệ điều hành phải lần theo dấu vết của nó trong bảng FAT.
· Bảng thư mục của nó có số lượng phần tử không giới hạn, có thể tăng lên hay giảm xuống tùy thuộc vào số lượng file và thư mục chứa trong nó. Nhờ vậy mà người sử dụng có thể chứa nhiều file thư mục trong một thư mục con trên đĩa. Số lượng phần tử trong bảng thư mục của các thư mục con chỉ bị giới hạn bởi dung lượng đĩa và kích thước các file thư mục chứa trong nó.
· Bảng thư mục của nó có thể định vị tại một vị trí bất kỳ trên vùng data của đĩa. Có thể xem đây là một hạn chế của thư mục con, vì nếu tạo quá nhiều thư mục con trên đĩa thì bảng thư mục của các thư muc con sẽ chiếm hết nhiều không gian đĩa trên vùng data. Do đó hệ điều hành không khuyến khích tạo quá nhiều thư mục con trên các đĩa mềm. Virus khó có thể tấn công bảng thư mục của thư mục con vì nó không cố định.
· Muốn biết được kích thước của thư mục con hệ điều hành phải tính toán từ kích thước của tất cả các file trong thư mục con, hệ điều hành dựa vào bảng thư mục của thư mục con và bảng FAT để thực hiện việc tính toán này.
Cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục của thư mục con tương tự cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục gốc. Đa số các phần tử trong bảng thư mục gốc của đĩa hay phần tử trong bảng thư mục của thư mục con, chứa thông tin của một thư mục (con), đều có trường Filename là tên của thư mục (con), trường Attribute = 16, trường Start cluster = cluster đầu tiên của thư mục (con), trường Filesize = 0, … Chỉ có hai phần tử đầu tiên trong bảng thư mục của các thư mục con là có chứa các giá trị đặc biệt.
Ngay sau khi có một thư mục con được tạo ra, hệ điều hành tạo ngay bảng thư mục cho nó và khởi tạo 2 phần tử đầu tiên trong bảng thư mục này:
· Phần tử thứ nhất, chứa mã ascii của kí tự dấu chấm (.) ở byte đầu tiên của trường filename, phần tử này chỉ đến chính thư mục hiện hành. Trường Start cluster cho biết cluster bắt đầu của thư mục này.
Phần tử thứ hai, chứa 2 mã ascii của 2 kí tự dấu chấm (..) ở 2 byte đầuĐể ghi một file vào thư mục gốc của đĩa (thông tin của file chứa ở một phần tử trong bảng thư mục gốc) hệ điều hành DOS thực hiện các bước sau đây:
1. Tìm một phần tử trong bảng thư mục gốc chưa sử dụng, đó là phần tử mà byte đầu tiên của nó chứa gia trị 00. Giả sử tìm được phần tử thứ 105.
2. Ghi tên file, phần mở rộng, thuộc tính của file, ngày giờ tạo file vào các trường tương ứng tại phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
3. Tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 207, điều này có nghĩa cluster 207 trên vùng data còn trống.
4. Ghi số hiệu của entry này, entry 207, vào trường start cluster tại offset 1Ah của phần tử 107 trong bảng thư mục gốc.
5. Ghi block đầu tiên của file vào cluster 107 trên vùng data. Nếu nội dung của tập tin chứa vừa đủ trong 1 cluster, thì DOS sẽ thực hiện bước cuối cùng (bước 9), ngược lại DOS tiếp tục thực hiện bước 6.
6. Tiếp tục tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 215, điều này có nghĩa cluster 215 trên vùng data còn trống.
7. Ghi giá trị 215 vào entry 207 trong bảng FAT và ghi block thứ hai của file vào cluster 215 trên vùng data.
8. Lặp lại các bước 6 và 7 cho đến khi ghi hết các block của file vào các cluster trên vùng data. Giả sử block cuối cùng của file được ghi vào cluster 302 trên vùng data, tức là entry cuối cùng được tìm thấy (chứa giá trị 00h) là entry 302.
9. Bước cuối cùng: ghi giá trị FFFh vào entry 107 hoặc vào entry 302.
10. Tính kích thước của tập tin và ghi vào trường filesize của phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
Ø Thư mục con (subdirectory): Như đã biết, bảng thư mục gốc của DOS định vị tại một vị trí cố định trên đĩa logic, sau 2 bảng FAT, số lượng phần tử trong bảng thư mục gốc là cố định, không thể mở rộng được, và được DOS quy định trong quá trình định dạng đĩa. Đó là những hạn chế về cấu trúc và tổ chức bảng thư mục gốc của DOS. Cụ thể là người sử dụng không thể chứa quá nhiều file, thư mục trên thư mục gốc và bảng thư mục gốc dễ bị virus tấn công. Hệ điều hành DOS đưa ra khái niệm thư mục con để khắc phục một phần những hạn chế trên.
Đối với người sử dụng, thư mục con là những thư mục nằm trên thư mục gốc của đĩa, trên đĩa chỉ có một thư mục gốc nhưng có thể có nhiều thư mục con, trong thư mục con có thể chứa nhiều (không giới hạn) file và thư mục con khác, gắn liền với thư mục con là thư mục cha của nó, thư mục cha có thể là thư mục gốc hoặc một thư mục con khác. Nhưng đối với DOS, thư mục con là một file đặc biệt, file này có thuộc tính thư mục con, byte thuộc tính có giá trị 00010000 (16), và có trường filesize = 0.
Về mặt hệ thống, thư mục con có các điểm khác sau đây so với thư mục gốc:
· Hệ điều hành lưu trữ nó giống như lưu trữ các file khác trên đĩa. Tức là, muốn đọc được thư mục con hệ điều hành phải lần theo dấu vết của nó trong bảng FAT.
· Bảng thư mục của nó có số lượng phần tử không giới hạn, có thể tăng lên hay giảm xuống tùy thuộc vào số lượng file và thư mục chứa trong nó. Nhờ vậy mà người sử dụng có thể chứa nhiều file thư mục trong một thư mục con trên đĩa. Số lượng phần tử trong bảng thư mục của các thư mục con chỉ bị giới hạn bởi dung lượng đĩa và kích thước các file thư mục chứa trong nó.
· Bảng thư mục của nó có thể định vị tại một vị trí bất kỳ trên vùng data của đĩa. Có thể xem đây là một hạn chế của thư mục con, vì nếu tạo quá nhiều thư mục con trên đĩa thì bảng thư mục của các thư muc con sẽ chiếm hết nhiều không gian đĩa trên vùng data. Do đó hệ điều hành không khuyến khích tạo quá nhiều thư mục con trên các đĩa mềm. Virus khó có thể tấn công bảng thư mục của thư mục con vì nó không cố định.
· Muốn biết được kích thước của thư mục con hệ điều hành phải tính toán từ kích thước của tất cả các file trong thư mục con, hệ điều hành dựa vào bảng thư mục của thư mục con và bảng FAT để thực hiện việc tính toán này.
Cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục của thư mục con tương tự cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục gốc. Đa số các phần tử trong bảng thư mục gốc của đĩa hay phần tử trong bảng thư mục của thư mục con, chứa thông tin của một thư mục (con), đều có trường Filename là tên của thư mục (con), trường Attribute = 16, trường Start cluster = cluster đầu tiên của thư mục (con), trường Filesize = 0, … Chỉ có hai phần tử đầu tiên trong bảng thư mục của các thư mục con là có chứa các giá trị đặc biệt.
Ngay sau khi có một thư mục con được tạo ra, hệ điều hành tạo ngay bảng thư mục cho nó và khởi tạo 2 phần tử đầu tiên trong bảng thư mục này:
· Phần tử thứ nhất, chứa mã ascii của kí tự dấu chấm (.) ở byte đầu tiên của trường filename, phần tử này chỉ đến chính thư mục hiện hành. Trường Start cluster cho biết cluster bắt đầu của thư mục này.
Phần tử thứ hai, chứa 2 mã ascii của 2 kí tự dấu chấm (..) ở 2 byte đầuĐể ghi một file vào thư mục gốc của đĩa (thông tin của file chứa ở một phần tử trong bảng thư mục gốc) hệ điều hành DOS thực hiện các bước sau đây:
1. Tìm một phần tử trong bảng thư mục gốc chưa sử dụng, đó là phần tử mà byte đầu tiên của nó chứa gia trị 00. Giả sử tìm được phần tử thứ 105.
2. Ghi tên file, phần mở rộng, thuộc tính của file, ngày giờ tạo file vào các trường tương ứng tại phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
3. Tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 207, điều này có nghĩa cluster 207 trên vùng data còn trống.
4. Ghi số hiệu của entry này, entry 207, vào trường start cluster tại offset 1Ah của phần tử 1
S sẽ thực hiện bước cuối cùng (bước 9), ngược lại DOS tiếp tục thực hiện bước 6.
6. Tiếp tục tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 215, điều này có nghĩa cluster 215 trên vùng data còn trống.
7. Ghi giá trị 215 vào entry 207 trong bảng FAT và ghi block thứ hai của file vào cluster 215 trên vùng data.
8. Lặp lại các bước 6 và 7 cho đến khi ghi hết các block của file vào các cluster trên vùng data. Giả sử block cuối cùng của file được ghi vào cluster 302 trên vùng data, tức là entry cuối cùng được tìm thấy (chứa giá trị 00h) là entry 302.
9. Bước cuối cùng: ghi giá trị FFFh vào entry 107 hoặc vào entry 302.
10. Tính kích thước của tập tin và ghi vào trường filesize của phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
Ø Thư mục con (subdirectory): Như đã biết, bảng thư mục gốc của DOS định vị tại một vị trí cố định trên đĩa logic, sau 2 bảng FAT, số lượng phần tử trong bảng thư mục gốc là cố định, không thể mở rộng được, và được DOS quy định trong quá trình định dạng đĩa. Đó là những hạn chế về cấu trúc và tổ chức bảng thư mục gốc của DOS. Cụ thể là người sử dụng không thể chứa quá nhiều file, thư mục trên thư mục gốc và bảng thư mục gốc dễ bị virus tấn công. Hệ điều hành DOS đưa ra khái niệm thư mục con để khắc phục một phần những hạn chế trên.
Đối với người sử dụng, thư mục con là những thư mục nằm trên thư mục gốc của đĩa, trên đĩa chỉ có một thư mục gốc nhưng có thể có nhiều thư mục con, trong thư mục con có thể chứa nhiều (không giới hạn) file và thư mục con khác, gắn liền với thư mục con là thư mục cha của nó, thư mục cha có thể là thư mục gốc hoặc một thư mục con khác. Nhưng đối với DOS, thư mục con là một file đặc biệt, file này có thuộc tính thư mục con, byte thuộc tính có giá trị 00010000 (16), và có trường filesize = 0.
Về mặt hệ thống, thư mục con có các điểm khác sau đây so với thư mục gốc:
· Hệ điều hành lưu trữ nó giống như lưu trữ các file khác trên đĩa. Tức là, muốn đọc được thư mục con hệ điều hành phải lần theo dấu vết của nó trong bảng FAT.
· Bảng thư mục của nó có số lượng phần tử không giới hạn, có thể tăng lên hay giảm xuống tùy thuộc vào số lượng file và thư mục chứa trong nó. Nhờ vậy mà người sử dụng có thể chứa nhiều file thư mục trong một thư mục con trên đĩa. Số lượng phần tử trong bảng thư mục của các thư mục con chỉ bị giới hạn bởi dung lượng đĩa và kích thước các file thư mục chứa trong nó.
· Bảng thư mục của nó có thể định vị tại một vị trí bất kỳ trên vùng data của đĩa. Có thể xem đây là một hạn chế của thư mục con, vì nếu tạo quá nhiều thư mục con trên đĩa thì bảng thư mục của các thư muc con sẽ chiếm hết nhiều không gian đĩa trên vùng data. Do đó hệ điều hành không khuyến khích tạo quá nhiều thư mục con trên các đĩa mềm. Virus khó có thể tấn công bảng thư mục của thư mục con vì nó không cố định.
· Muốn biết được kích thước của thư mục con hệ điều hành phải tính toán từ kích thước của tất cả các file trong thư mục con, hệ điều hành dựa vào bảng thư mục của thư mục con và bảng FAT để thực hiện việc tính toán này.
Cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục của thư mục con tương tự cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục gốc. Đa số các phần tử trong bảng thư mục gốc của đĩa hay phần tử trong bảng thư mục của thư mục con, chứa thông tin của một thư mục (con), đều có trường Filename là tên của thư mục (con), trường Attribute = 16, trường Start cluster = cluster đầu tiên của thư mục (con), trường Filesize = 0, … Chỉ có hai phần tử đầu tiên trong bảng thư mục của các thư mục con là có chứa các giá trị đặc biệt.
Ngay sau khi có một thư mục con được tạo ra, hệ điều hành tạo ngay bảng thư mục cho nó và khởi tạo 2 phần tử đầu tiên trong bảng thư mục này:
· Phần tử thứ nhất, chứa mã ascii của kí tự dấu chấm (.) ở byte đầu tiên của trường filename, phần tử này chỉ đến chính thư mục hiện hành. Trường Start cluster cho biết cluster bắt đầu của thư mục này.
Phần tử thứ hai, chứa 2 mã ascii của 2 kí tự dấu chấm (..) ở 2 byte đầu Để ghi một file vào thư mục gốc của đĩa (thông tin của file chứa ở một phần tử trong bảng thư mục gốc) hệ điều hành DOS thực hiện các bước sau đây:
1. Tìm một phần tử trong bảng thư mục gốc chưa sử dụng, đó là phần tử mà byte đầu tiên của nó chứa gia trị 00. Giả sử tìm được phần tử thứ 105.
2. Ghi tên file, phần mở rộng, thuộc tính của file, ngày giờ tạo file vào các trường tương ứng tại phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
3. Tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 207, điều này có nghĩa cluster 207 trên vùng data còn trống.
4. Ghi số hiệu của entry này, entry 207, vào trường start cluster tại offset 1Ah của phần tử 107 trong bảng thư mục gốc.
5. Ghi block đầu tiên của file vào cluster 107 trên vùng data. Nếu nội dung của tập tin chứa vừa đủ trong 1 cluster, thì DOS sẽ thực hiện bước cuối cùng (bước 9), ngược lại DOS tiếp tục thực hiện bước 6.
6. Tiếp tục tìm một entry trong bảng FAT chứa giá trị 000h, giả sử tìm được entry 215, điều này có nghĩa cluster 215 trên vùng data còn trống.
7. Ghi giá trị 215 vào entry 207 trong bảng FAT và ghi block thứ hai của file vào cluster 215 trên vùng data.
8. Lặp lại các bước 6 và 7 cho đến khi ghi hết các block của file vào các cluster trên vùng data. Giả sử block cuối cùng của file được ghi vào cluster 302 trên vùng data, tức là entry cuối cùng được tìm thấy (chứa giá trị 00h) là entry 302.
9. Bước cuối cùng: ghi giá trị FFFh vào entry 107 hoặc vào entry 302.
10. Tính kích thước của tập tin và ghi vào trường filesize của phần tử 105 trong bảng thư mục gốc.
Ø Thư mục con (subdirectory): Như đã biết, bảng thư mục gốc của DOS định vị tại một vị trí cố định trên đĩa logic, sau 2 bảng FAT, số lượng phần tử trong bảng thư mục gốc là cố định, không thể mở rộng được, và được DOS quy định trong quá trình định dạng đĩa. Đó là những hạn chế về cấu trúc và tổ chức bảng thư mục gốc của DOS. Cụ thể là người sử dụng không thể chứa quá nhiều file, thư mục trên thư mục gốc và bảng thư mục gốc dễ bị virus tấn công. Hệ điều hành DOS đưa ra khái niệm thư mục con để khắc phục một phần những hạn chế trên.
Đối với người sử dụng, thư mục con là những thư mục nằm trên thư mục gốc của đĩa, trên đĩa chỉ có một thư mục gốc nhưng có thể có nhiều thư mục con, trong thư mục con có thể chứa nhiều (không giới hạn) file và thư mục con khác, gắn liền với thư mục con là thư mục cha của nó, thư mục cha có thể là thư mục gốc hoặc một thư mục con khác. Nhưng đối với DOS, thư mục con là một file đặc biệt, file này có thuộc tính thư mục con, byte thuộc tính có giá trị 00010000 (16), và có trường filesize = 0.
Về mặt hệ thống, thư mục con có các điểm khác sau đây so với thư mục gốc:
· Hệ điều hành lưu trữ nó giống như lưu trữ các file khác trên đĩa. Tức là, muốn đọc được thư mục con hệ điều hành phải lần theo dấu vết của nó trong bảng FAT.
· Bảng thư mục của nó có số lượng phần tử không giới hạn, có thể tăng lên hay giảm xuống tùy thuộc vào số lượng file và thư mục chứa trong nó. Nhờ vậy mà người sử dụng có thể chứa nhiều file thư mục trong một thư mục con trên đĩa. Số lượng phần tử trong bảng thư mục của các thư mục con chỉ bị giới hạn bởi dung lượng đĩa và kích thước các file thư mục chứa trong nó.
· Bảng thư mục của nó có thể định vị tại một vị trí bất kỳ trên vùng data của đĩa. Có thể xem đây là một hạn chế của thư mục con, vì nếu tạo quá nhiều thư mục con trên đĩa thì bảng thư mục của các thư muc con sẽ chiếm hết nhiều không gian đĩa trên vùng data. Do đó hệ điều hành không khuyến khích tạo quá nhiều thư mục con trên các đĩa mềm. Virus khó có thể tấn công bảng thư mục của thư mục con vì nó không cố định.
· Muốn biết được kích thước của thư mục con hệ điều hành phải tính toán từ kích thước của tất cả các file trong thư mục con, hệ điều hành dựa vào bảng thư mục của thư mục con và bảng FAT để thực hiện việc tính toán này.
Cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục của thư mục con tương tự cấu trúc của một phần tử trong bảng thư mục gốc. Đa số các phần tử trong bảng thư mục gốc của đĩa hay phần tử trong bảng thư mục của thư mục con, chứa thông tin của một thư mục (con), đều có trường Filename là tên của thư mục (con), trường Attribute = 16, trường Start cluster = cluster đầu tiên của thư mục (con), trường Filesize = 0, … Chỉ có hai phần tử đầu tiên trong bảng thư mục của các thư mục con là có chứa các giá trị đặc biệt.
Ngay sau khi có một thư mục con được tạo ra, hệ điều hành tạo ngay bảng thư mục cho nó và khởi tạo 2 phần tử đầu tiên trong bảng thư mục này:
·
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét