Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

NTFS

đến việc dư thừa dữ liệu, và cho phép ngăn chặn dư thừa dữ liệu dựa trên phần mềm, đây là một giải pháp mang lại hiệu quả về mặt kinh tế hơn so với các giải pháp phần cứng. va mang trinhdo choi tinh ducam dao gia phau thuat tham my 
          Với nhữngcan dien tu mục tiêu trên, NTFS đã cung cấp cho người sử dụng và chương trình của người sử dụng những tính năng cao cấp: Tên dựa trên mã Unicode; Chỉ mục chung; Ánh xạ động các Bad cluster; Nén và giải nén File; Cấp hạn ngạch đĩa; Chống phân mảnh; Mã hoá các File; vv. Sau đây chúng ta sẽ xem xét một vài tính năng trong số đó:
Chỉ mục chung: Kiến trúc NTFS được cấu trúc để cho phép chỉ mục các thuộc tính của file trên volume đĩa. Cấu trúc này cho phép hệ thống file tìm kiếm các file trên đĩa một cách hiệu quả dựa trên các điều kiện kết hợp. Hệ thống file FAT chỉ chỉ mục theo tên file và không có sự sắp xếp trong đó nên hiệu quả của việc tìm kiếm file trong các thư mục lớn sẽ rất thấp.    
Ánh xạ tự động các Bad Cluster: Thông thường nếu một chương trình cố gắng đọc dữ liệu từ một sector hỏng trên đĩa, thì việc đọc đó sẽ thất bại và dữ liệu trên cluster được định vị sẽ trở thành không thể truy cập được. Nhưng nếu volume được cài đặt hệ thống NTFS có khả năng sửa lỗi thì trình điều khiển lỗi của windows 2000 sẽ tự động tìm một bản sao dữ liệu tốt của dữ liệu tại sector hỏng đó và báo cho NTFS biết là sector đó đã bị hỏng. NTFS sẽ cấp một cluster mới thay cho cluster chứa sector hỏng và sao chép dữ liệu vào sector mới đó. Và sector này sẽ được chỉ báo để không được sử dụng nữa.
Nén file: NTFS hỗ trợ việc nén dữ liệu các tập tin. Bởi vì NTFS thực hiện việc nén và gải nén một các trong suốt, nên các ứng dụng không cần thay đổi để có được những thuận lợi từ tính năng này. Các thư mục cũng có thể được nén, tức là tất cả các file được tạo ra trong thư mục cũng đều được nén.
Cấp hạn ngạch (Quotas) đĩa cho người sử dụng: Người quản trị hệ thống thường muốn theo dõi hoặc giới hạn không gian lưu trữ trên volume mà họ đã chia sẻ cho người sử dụng, vì thế NTFS đã cung cấp các công cụ quản lý hạn ngạch để họ thực hiện điều này. Với công cụ quản lý hạn ngạch, NTFS cho phép chỉ định không gian đĩa mà nỗi người sử dụng được phép sử dụng và thông báo cho người sử dụng biết không gian đĩa còn lại mà họ được phép sử dụng để lưu trữ, một cách tức thời.
IV.9.2. Cấu trúc của MFT
Trong hệ thống file NTFS, tất cả dữ liệu lưu trữ trên volume đều được chứa trong các tập tin, bao gồm cấu trúc dữ liệu được dùng để định vị và đọc lại các file, dữ liệu của bootstrap, và bitmap mà nó dùng để ghi lại trạng thái cấp phát của tất cả các block (cluster) trên volume (gọi là metadata NTFS). Việc lưu trữ mọi dữ liệu trong các tập tin cho phép hệ thống file dễ dàng tìm kiếm và bảo trì dữ liệu, và mỗi tập tin riêng có thể được bảo vệ bởi một mô tả an toàn dữ liệu riêng. 
MFT (Master File Table) là trung tâm trong cấu trúc của các volume NTFS. Windows 2000 sử dụng MFT để quản lý việc lưu trữ các file và thư mục trên một volume. MFT bao gồm một dãy các record (còn gọi là record file hay entry), có kích thước cố định là 1Kb. Mỗi record trong MFT dùng để mô tả về một file hoặc thư mục trên volume, kể cả record của chính nó. Nó chứa những thuộc tính của file, như tên file, timestamps (các đặc trưng về thời gian tạo và thay đổi tập tin), và danh sách địa chỉ đĩa (cluster) nơi lưu trữ các block của file. Nếu kích thước file quá lớn hệ điều hành cần phải sử dụng 2, hoặc nhiều hơn một record va mang trinhdo choi tinh ducam dao gia phau thuat tham my  MFT để lưu danh sách địa chỉ tất cả các block đĩa chứa file trên volume. Trong trường hợp này, record MFT đầu tiên của file  được gọi là record cơ sở, nó trỏ đến các record MFT mở rộng khác.
Hệ thống file của Windows 2000 sử dụng một bitmap để theo dõi các toàn bộ MFT còn trống. Số lượng record của MFT có thể tăng lên khi cần và có thể tăng đến 248 record vì bản thân MFT là một file, nó như có thể đuợc xuất hiện ở mọi nơi trong volume 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét