Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

windows98.

Trên các hệ thống file FAT16, windows 2000 cho phép kích thước cluster đi từ 512 byte đến 64Kb, nên với FAT16 windows 2000 có thể quản lý một không gian đĩa lên đến 4Gb. Khi người sử dụng format đĩa, tùy theo dung l 
          Trong windows 2000 kích thước cluster được chọn phụ thuộc vào dung lượng của ổ đĩa. Bảng 4.2 cho thấy kích thước cluster được chọn, phụ thuộc vào dung lượng volume, trên hệ thống file FAT16.
Hệ thống file FAT32 được định nghĩa dựa trên các hệ thống file FAT. Trong thực tế FAT32 sử dụng chỉ sử dụng 28 bít, thay vì 32 bít, để định danh các cluster trên đĩa, vì đã dành riêng 4 bít cao cho mục đích khác. Kích thước của 1 cluster trên hệ thống FAT32 có thể lên đến 32Kb, nên theo lý thuyết thì FAT32 có thể quản lý đến 8Tb dung lượng partition/đĩa. Nhưng trong thực tế windows 2000 chỉ dùng FAT32 trên các partition/đĩa có kích thước nhỏ hơn 32Gb. va mang trinhdo choi tinh ducam dao giaphau thuat tham my
          Sau đây là một số thuận lợi của FAT32 so với FAT12 và FAT16:
·                    Số phần tử/ mục vào (entry) trên thư mục gốc không có giới hạn.
·                    Thư mục gốc không cần lưu trữ tại một vị trí xác định trước.
·                    Kích thước của một cluster có thể lên đến 32Kb nên nó có thể quản lý được 8Tb, nhưng trong thức tế windows 2000 chỉ dùng FAT32 để quản lý có partition/đĩa có kích thước nhỏ hơn 32Mb.
·                    Chỉ dùng 28 bít để định danh các cluster, dùng 4 bít cao cho mục đích khác.
·                    Lưu trữ một bản copy của boot sector.
·                    Có hai bảng FAT trên một volume nhưng cả hai đều có vai trò như nhau.
·                    Kích thước của file có thể lên đến 4Gb.        
Hệ thống file FAT32 không được các hệ điều hành sử dụng để định dạng đĩa mềm.

Ø    NTFS: Là hệ thống file dành riêng cho windowsNT/2000. NTFS dùng 64 bít để định danh các cluster, nên nó có thể quản lý được các ổ đĩa có dung lương lên đến 16 Exabyte  (16 tỉ Gb). Trong thực tế windowsNT/2000 chỉ sử dụng 32 bítđể định danh cluster, kích thước cluster là 64Kb, nên NTFS chỉ có thể quản lý được các ổ đĩa có dung lượng lên đến 128TB.

NTFS có một số tính năng cao cấp như bảo mật các file/directory, cấp hạn ngạch cho đĩa, nén file, mã hoá file, … Một trong những tính năng quan trọng của NTFS là khả năng phục hồi lỗi. Nếu hệ thống bị dừng một cách đột ngột, thì metadata của ổ đĩa FAT sẽ rơi vào tình trạng xung khắc dẫn đến làm sai lệch một lượng lớn dữ liệu tập tin và thư mục. Nhưng trên NTFS thì điều này không thể xảy ra, tức là cấu trúc của file/ Directory không bị thay đổi.

Tên file trong NTFS có độ dài không quá 255 ký tự, đường dẫn đầy đủ đến file dài không quá 32.567 ký tự. Tên file sử dụng mã UniCode. Tên file trong NTFS có sự phân biệt giữa chữ hoa và chữ thường

Ø    CDFS: Là hệ thống file được đưa ra để quản lý các file, thư mục trên các đĩa CD_ROM. CDFS được ISO đưa ra vào năm 1998 theo chuẩn ISO9660, sau đó Microsoft phát triển theo đặc thù của nó để sử dụng trên windows98 và sau đó là windowsNT/2000. Dạng thức hệ thống file CDFS còn một số hạn chế như: Tên file và thư mục dài không quá 32 ký tự, cây thư mục không sâu quá 8 mức.  

Ø    UDF: Được windows 2000 phát triển dựa theo chuẩn ISO 13346 để thay thế cho CDFS, và dùng để quản lý các đĩa từ-quang, chủ yếu là các đĩa DVD_ROM. UDF bao gồm cả các đặc tả DVD và có các điểm tiêu biểu sau: Tên tập tin có thể dài đến 255 ký tự, đường dẫn có thể dài đến 1023 ký tự, tên tập tin có thể được viết hoa hay viết thường. 

Tổ chức đĩa của MS_DOS

Chương trình FDISK của hệ điều hành cho phép chia không gian lưu trữ của đĩa cứng (đĩa cơ bản) thành các phần khác nhau, có thể có kích thước không bằng nhau, được gọi là các phân khu (partition) đĩa. Hệ điều hành DOS cho phép tạo ra 3 loại phân khu: Phân khu DOS chính (primary DOS), phân khu DOS mở rộng (Extended DOS), và phân khu phi DOS (non DOS). Muốn cài đặt nhiều hệ điều hành trên một máy tính, hay chính xác hơn là trên một ổ đĩa cơ bản, thì trước hết phải chia đĩa thành các phân khu, sau đó trên các phân khu khác nhau sẽ cài đặt các hệ điều hành khác nhau, thường là MS_DOS hoặc windows98.   
Thông thường ổ đĩa cứng được chia thành 2 phân khu: DOS chính và DOS mở rộng, cũng có thể chỉ tạo thành một phân khu DOS chính. Theo quy định của hệ điều hành, đĩa C: được hình thành trên phân khu DOS chính một cách tự động và chiếm toàn bộ kích thước của phân khu. Người sử dụng phải thực hiện việc tạo ra các đĩa logic (D:, E:, …) trên phân khu DOS mở rộng trong quá trình FDISK đĩa. Nếu không, phân khu DOS mở rộng sẽ không được sử dụng sau này. Ta có thể tạo ra 1, 2, 3, … đĩa logic trên phân khu DOS mở rộng và có thể tổng kích thước của các đĩa logic trên phân khu mở rộng nhỏ hơn kích thước của phân khu này (để lại một phần cho mục đích khác sau này). Hệ điều hành chịu trách nhiệm boot hệĐ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét