Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

FDISK

Quá trình FDISK đĩa chỉ tạo ra các phân khu và các đĩa logic C:, D:, E:, vv, sau đó người sử dụng phải thực hiện việc định dạng (format) các ổ đĩa này thì mới có thể sử dụng được. Nên nhớ phải định dạng hệ thống (format /s) cho đĩa C: và phải cài đặt hệ điều hành boot chíng vào đĩa CĐể va mang trinhdo choi tinh ducam dao giaphau thuat tham my
Hình sau đây cho thấy một ổ đĩa cứng vật lý được chia thành 2 phân khu và các đĩa logic được tạo ra trên các phân khu:










Trong số các partition đã tạo phải có 1 (chỉ1) partition được chọn là partition active (chủ động). Partition Active là partition mà sau này được chọn là partition boot hệ thống. Partition DOS chính thường được chọn là partition active.
Các partition khác nhau trên đĩa, có các thông tin sau đây khác nhau: Loại của partition; Partition có phải là Active hay không; Kích thước của partition; Vị trí bắt đầu và kết thúc của partition; Hệ điều hành được cài đặt trên partition; … Để lưu trữ thông tin khác nhau của các partition, hệ điều hành DOS dùng một khối dữ liệu đặc biệt, được gọi là sector phân khu (partition sector), sector này nằm tại sector vật lý đầu tiên của đĩa cứng (head 0, track 0, sector 1) và nó không thuộc về bất kỳ một partition nào trên đĩa. Sector này thường được gọi là bảng partition. Hình vẽ sau đây minh hoạ cho điều này:














Hình trên cũng cho thấy sự tương ứng về mặt về mặt logic giữa một đĩa mềm (a)  với một partition/đĩa logic trên đĩa cứng (b). Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận là master boot record (sector phân khu) chỉ có trên đĩa cứng, nó được tạo ra trong quá trình FDISK đĩa. Thứ hai là: Boot sector của đĩa mềm được định vị tại sector 0 của đĩa, trong khi đó boot sector của các đĩa logic trên các partition được định vị tại sector đầu tiên của partition và số hiệu của sector này được tìm thấy trong các phần tử trong bảng partition của master boot record bởi boot code ở đầu master boot record. Thứ ba: Master boot record không thuộc bất kỳ một partition nào và giữa nó và partition đầu tiên là một vùng trống, có thể DOS dự trữ cho các mục đích khác sau này. Vùng trống này là một kẽ hở của DOS, các đoạn code của Virus có thể được lưu trữ ở vùng này mà hệ điều hành không thể phát hiện được.
Khi master boot record trên đĩa cứng bị xoá hoặc bị nhiễm virus thì máy tính không thể khởi động được. Để khôi phục lỗi này ta chỉ có thể thực hiện như sau: Khởi động máy từ đĩa mềm, trên đĩa mềm có chứa tập tin FDISK.EXE, rồi sau đó thực hiện lại thao tác FDISK đĩa cứng với tham số MBR (A:\FDISK /MBR). FDISK /MBR làm mới lại master boot record mà không làm hỏng dữ liệu trên các đĩa logic.            
Sector phân khu bao gồm 3 thành phần: Boot code, bảng partition và chữ kí hệ điều hành. Hình 4.8 sau đây cho thấy các thành phần trong Sector phân khu:
·                    Boot code: là một đoạn chương trình đặc biệt, được hệ điều hành ghi vào trong quá trình FDISK đĩa. Đoạn chương trình này có nhiệm vụ kiểm tra bảng partition để xác định xem trên đĩa có partition active hay không, nếu có thì đó là partition nào và bắt đầu tại sector nào, rồi sau đó nạp boot sector của đĩa trên partition active vào RAM và chuyển quyền điều khiển về cho boot sector.
·                    Bảng partition (64 byte: bắt đầu từ byte 1BE h): gồm 4 phần tử, đánh số từ 1 đến 4, mỗi phần tử dài 16 byte dùng để lưu thông tin của một partition. Các thông tin trong một phần tử trong bảng partition cho biết: Phân khu có phải là active hay không; Vị trí bắt đầu phân khu (head, sector, cylinder); Vị trí kết thúc phân khu (head, sector, cylinder); Có bao nhiêu sector nằm trong phần khu; Kích thước của một phân khu tính theo sector; Phân khu được định dạng như thế nào và  được cài đặt hệ điều hành nào?.













Vì bảng partition chỉ có 4 phần tử nên DOS chỉ cho phép tạo ra tối đa là 4 partition. Đây là một hạn chế. Để khắc phục điều này hệ điều hành DOS cho phép tạo ra nhiều đĩa logic trên một partition mở rộng, tức là có thể tạo ra được nhiều đĩa logic trên một ổ đĩa cơ sở. Hệ điều hành windowsNT/ 2000 cho phép tạo ra nhiều hơn 4 partition trên một ổ đĩa và số lượng các phần tử trong bảng partition có thể thay đổi. 
·                    Chữ ký hệ điều hành (2 byte: bắt đầu từ byte 1FEh): thường chứa giá trị 55AAh. Hệ điều hành DOS kiểm tra giá trị tại vùng này để biết đĩa này có phải được định dạng bởi nó hay không.   
Một phần tử trong bảng phân khu chứa các thông tin sau:
       Offset                            Nội dung                                    Kích thước
          00 h            0: partition không phải là active                         1 byte
                                  80 h: partition là active                    
              01 h            số hiệu head bắt đầu phân khu                            1 byte
          02 h            sector và cylinde bắt đầu (của boot sector) 2 byte
          04 h            mã hệ thống: 0: Non Dos; 1: FAT_12;
                                  4: FAT_16; 5: phân khu Dos mở rộng;
                                  6: phân khu Dos lớn hơn 32 Mb                          1 byte
          05 h            số hiệu head kết thúc phân khu                            1 byte
              06 h            sector và cylinde kết thúc                                     2 byte
          08 h            số hiệu sector tương đối bắt đầu                          4 byte
  0C h        

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét