· 4 record MFT cuối cùng dự trữ cho việc sử dụng sau này.
Khi lần đầu tiên truy cập volume, NTFS phải Mount nó, tức là đọc metadata từ đĩa và xây dựng cấu trúc dữ liệu bên trong để nó có thể xử lý các truy cập từ các ứng dụng. Để mount volume, NTFS tìm trong boot sector địa chỉ vật lý của MFT. Theo trên, record file riêng của MFT là entry đầu tiên trong MFT, record file thứ hai trỏ đến một file được định vị ở vùng giữa đĩa, đó là MFT mirror (tên là $MftMir). Khi NTFS tìm thấy record file của MFT va mang trinh, do choi tinh duc, am dao gia phau thuat tham my nó lấy được những thông tin ánh xạ từ VNC-to-LCN trong thuộc tính data và lưu vào bộ nhớ để chuẩn bị cho các quá trình ghi/đọc file sau này.
Các Record File
Hệ thống file NTFS lưu trữ các file như là một tập các cặp thuộc tính/giá trị (attribute/value), một trong số đó là dữ liệu nó chứa (được gọi là thuộc tính dữ liệu không tên). Các thuộc tính của một file bao gồm tên file, thông tin time stamp và có thể là các thuộc tính có tên được thêm vào. Hình 4.19.a sau đây cho thấy một record MFT cho một file nhỏ: có 3 thuộc tính: Standard Information (thông tin chuẩn), Filename (tên file) và Data (dữ liệu).
Mỗi thuộc tính file được lưu trữ như là một dòng tách biệt của các byte trong phạm vi file. Nói cách khác NTFS không đọc ghi các file mà nó chỉ đọc ghi các dòng thuộc tính. NTFS cung cấp các thao tác thuộc tính như: create, delete, read (byte range), write (byte range). Các dịch vụ ghi đọc thường thao tác trên các thuộc tính dữ liệu không đặt tên. Tuy nhiên, một lời gọi có thể chỉ ra một thuộc tính dữ liệu khác bằng cách sử dụng cú pháp dòng dữ liệu được đặt tên.

Cả NTFS và FAT đều cho phép mỗi tên file trong đường dẫn có thể dài đến 255 kí tự, trong đó có cả các kí tự unicode và các dấu phân cách khác. Để tương thích với các ứng dụng 16 bít của DOS, khi có file với tên file dài được tạo ra thì windows 2000 sẽ tự động sinh ra một tên file theo kiểu của DOS (tên file 8.3). Tên theo kiểu DOS được lưu trữ trong cùng một record trong MFT với tên file NTFS (tên file dài), vì thế nó tham chiếu đến cùng một file.

Hình 4.19.b: Một record MFT có chứa tên MS_DOS
Windows 2000 tạo ra tên file theo kiểu DOS từ tên file dài tương tự như cách mà hệ điều hành windows98 đã làm. Tên MS_DOS được dùng để ghi, đọc, copy một file.
Thuộc tính thường trú và thuộc tính không thường trú
Với các file có kích thước nhỏ thì tất cả thuộc tính và giá trị của nó được chứa trong một record trong MFT. Khi giá trị của thuộc tính được lưu trực tiếp trong MFT thì thuộc tính đó được gọi là thuộc tính thường trú. Thuộc tính thông tin chuẩn và thuộc tính chỉ mục gốc thường được định nghĩa là thuộc tính thường trú.

Hình 4.20.a: Header và value của thuộc tính thường trú
Mỗi thuộc tính đều bắt đầu với một header, header này chứa thông tin về thuộc tính, đó là thông tin mà NTFS dùng để quản lý thuộc tính. Header cho biết các thông tin liên quan đến giá trị của nó như là có phải là thường trú (RESIDENT) hay không, offset từ header đến giá trị của thuộc tính, độ dài (length) giá trị của thuộc tính, vv. Hình 4.20.b sau đây cho thấy thuộc tính filemane gồm có header là “RESIDENT” + Offset:8h + Length:14h và value là MYFILE.DAT.
Khi giá trị của thuộc tính được lưu trữ trong record MFT thì thời gian đọc nội dung của một file của NTFS sẽ được giảm xuống, vì nó không phải tìm danh sách các cluster chứa nội dung của file dựa vào việc phân tích bảng FAT như trong các hệ thống file FAT, mà chỉ cần đọc ngay giá trị tại các cluster trên đĩa chứa nội dung của file, danh sách các cluster nay được ghi ở phần giá trị của thuộc tính
Thuộc tính cho các thư mục nhỏ cũng giống như thuộc tính của các file nhỏ, nó có thể thường trú trong MFT. Hình sau đây là một record MFT cho thư mục nhỏ: can dien tu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét